Không có cách nào để hình thành thói quen thao tác ngoài chính sự vận hành. Bạn có thể tìm thấy một dấu hiệu khác để nhận biết những câu quan trọng trong các từ cấu thành nên câu. Chỉ sau khi đọc, bạn mới có thể viết những bài viết đơn giản, rõ ràng, chọn lọc được những thông tin chính từ các trang báo và loại bỏ những phần không quan trọng.
Quy tắc 8 được phát biểu như sau: TÌM RA HƯỚNG GIẢI QUYẾT CỦA TÁC GIẢ. Hình thức các bài viết đều giống nhau: nêu lên các câu hỏi, đưa ra các câu trả lời sai; viện dẫn những lý lẽ để ủng hộ câu trả lời sai; sau đó có một bài viết đáng tin cậy phản lại những lý lẽ đó (thường là một bài từ Kinh Thánh). Bạn sẽ không thể khỏa lấp được sự thiếu hiểu biết của mình trừ phi bạn có thể đặt ra một câu hỏi thông minh cho cuốn sách tham khảo bạn đang sử dụng.
Sách tham khảo cũng phải được sử dụng một cách nghệ thuật. Thậm chí khi bạn thuần thục kỹ năng này, không phải cuốn sách nào bạn cũng cố gắng đọc. Hoặc bạn có thể quyết định rằng hiểu như thế là đủ, và không cần quan tâm đến những gì vượt quá tầm hiểu biết của bạn.
Tuy nhiên, những mô tả đó vẫn quan trọng vì câu chuyện của Thucydides có ảnh hưởng tới phần lịch sử tiếp theo của nhân loại. Trên thực tế, có cả các thí nghiệm cổ điển và các loại sách cổ điển. Nắm vững thực tế này có thể giúp độc giả phát hiện những từ quan trọng hơn.
Hiểu hơn những gì trước đây bạn chưa hiểu cũng là học hỏi. Tuy nhiên, cũng có thể chúng tôi đã hiểu sai ý bạn. Vì thế, việc đọc lại cuốn sách làm bạn thất vọng.
Minh họa trên là điển hình cho quá trình tiếp nhận ý nghĩa của độc giả. Dĩ nhiên, không phải tất cả các tác phẩm khoa học kinh điển đều sử dụng hay cần phải sử dụng toán học. Đọc lướt hay đọc để chuẩn bị luôn luôn là một ý tưởng hay, và điều này thường cần thiết khi bạn không biết liệu cuốn sách mình đang cầm có đáng đọc không.
Tác giả kể chuyện về những người đàn ông Hy Lạp và La Mã vĩ đại ngày xưa nhằm giúp những người cùng thời với ông cũng trở nên vĩ đại như họ, và giúp họ tránh được những sai lầm mà người vĩ đại thường mắc phải. Họ trình bày thẳng thắn về các quan điểm triết học chứ không đưa ra các mâu thuẫn về ý kiến hay giả thuyết như của Platon. Dấu hiệu đầu tiên và rõ ràng nhất là việc tác giả nhấn mạnh một cách dứt khoát vào những từ cụ thể.
Hành động ở đây không hẳn mang nghĩa đi đâu hoặc làm gì. Cho đến năm 1930 và vài năm sau đó, sách triết học vẫn được viết cho độc giả bình thường. Rõ ràng sự thiếu nhất quán của một triết gia là một điều nghiêm trọng.
Ví dụ, bạn thường phải có quan điểm nhất định đối với vấn đề tác giả đưa ra. Theo Aristotle, triết học bắt nguồn từ sự thắc mắc và bắt đầu từ thời thơ ấu, mặc dù đối với đa số chúng ta triết học cũng đã chất dứt từ thời thơ ấu. Nó được đưa ra trên cơ sở cấu trúc của sách.
Trước hết, ông định nghĩa vật mà sau đó ông sẽ sử dụng từ điểm để gọi tên. Trên thực tế, không phải ai cũng hiểu rằng để trở thành một nghệ sĩ, người ta phải thực hiện theo các quy tắc. Các nhân vật ra khỏi phạm vi cuốn sách thì không tồn tại nữa và mọi tưởng tượng của bạn về điều gì đã xảy đến với các nhân vật trước mở đầu và sau kết thúc của câu chuyện chỉ là vô nghĩa.